The Soda Pop

=TOM TAT LSVN PHAN 3C=


|P1|P2|P3a|P3b|P3d|P3e|P4|ledacdam
Cuối năm 1287, Hốt Tất Liệt gom 30 vạn quân giao Thoát Hoan chỉ huy thẳng tiến Đại Việt để báo thù. Lần này quân Nguyên cũng chia làm 3 đạo: Thoát Hoan tiến vào qua ngả Lạng Sơn, Ai Lỗ vào theo hướng dọc sông Lô (sông Hồng ngày nay), Ô Mã Nhi theo đường biển vào sông Bạch Đằng, ngòai ra còn có đoàn thuyền lương thực do Trương Văn Hổ chỉ huy đi sau Ô Mã Nhi. Các cánh quân Nguyện hẹn hội quân tại Vạn Kiếp. Quân Trần tổ chức đánh chặn nhưng cũng như lần trước. Quân Nguyên lúc này còn hăng hái nên tiến được vào đến Vạn Kiếp tuy bị tổn thất chút ít. Ô Mã Nhi có lẽ nóng lòng báo thù nên tung tăng đi trước bỏ đoàn thuyền lương nặng nề của Trương Văn Hổ khá xa. Khi Ô Mã Nhị họp quân với Thóat Hoan ở Vạn Kiếp thì đòan thuyền lương còn ở ngòai biển. Sau đó thì bị Trần Khánh Dư đánh chìm toàn bộ ở Vân Đồn. Thoát Hoan và Ô Mã Nhi trong đất liền không hề hay biết.  Tại Vạn Kiếp, Thoát Hoan chỉnh đốn đội ngũ tấn công Thăng Long. Trần Quốc Tuấn lại để thành Thăng Long vườn không nhà trống. Thoát Hoan vào Thăng Long không bắt được vua Trần liền sai Ô Mã Nhi gấp rút đuổi bắt. Không đuổi kịp, Ô Mã Nhi trút bực tức bằng cách cho quân cuớp bóc dân chúng, đốt phá nhà cửa, chùa chiền, đào bới lăng mộ vua Trần Cảnh,.. Không ở được Thăng Long, Thoát Hoan cho quân lui về Bắc Giang, Vạn Kíếp sai Ô Mã Nhi ra biển tìm đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ. Ô Mã Nhi ra đến cửa biển Đại Bàng (Hải Phòng) thì bị đánh tơi bời. Quân Trần bắt được 300 chiến thuyền. Ô Mã Nhi quay về Vạn Kiếp. Vua Trần cho người mang theo tù binh bắt được của đoàn thuyền lương sang trại Thoát Hoan thông báo đoàn thuyền lương Trương Văn Hổ đã bị diệt rồi. Tin đó làm quân Nguyên lo sợ vì lương thực đã hết. Cùng lúc quân Trần phản công ở khắp nơi. Sợ nguy, Thoát Hoan vội bàn với các tướng rút quân về nước. Tất cả tướng Nguyên đều đồng ý. Thoát Hoan rút theo đường bộ theo ngả Lạng Sơn, Ô Mã Nhi rút theo sông Bạch Đằng. Nhưng Trần Quốc Tuấn đã cho quân mai phục tất cả mọi nẻo đường rút chạy. Ô Mã Nhi, cùng bộ tướng là Phàn Tiếp lọt vào trận địa bãi cọc ở cửa sông Bạch Đằng, bị bắt sống, máu quân Nguyên nhuộm đỏ nước sông. Trên bộ, Thoát Hoan cũng bị chặn đánh nhiều trận. Xác quân Nguyên trải dài từ Vạn Kiếp tới biên giới Lạng Sơn. Cuối tháng 4/1288, Thoát Hoan mới về được châu Tư Minh (Quảng Tây, Trung Quốc). Đại Việt lại sạch bóng giặc ngoại xâm. Sau chiến  thắng quân Mông Nguyên lần thứ 3, Đại Việt có được một thời gian dài ổn định và phát triển hưng thịnh. Nhưng từ đời vua Trần Dụ Tông trở đi thì nước Đại Việt đã có nhiều biểu hiện suy thoái. Vua quan bất tài, ăn chơi, sa đọa. Ngôi báu nhà Trần đã có lúc rơi vào tay ngọai tộc, giặc giã nỗi lên như nấm, các nước lân cận đều mang quân tràn sang cướp phá…Từ đời vua Trần Nghệ Tông trở đi, Hồ Quý Ly nổi lên là một nhà chính trị có tài và được trọng dụng. Nhờ đó nhân buổi rối ren, suy thoái của nhà Trần, Hồ Quý Ly đọat được ngôi báu. Năm 1400, Hồ Quý Ly lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Thánh Nguyên, đổi tên nước Đại Việt thành Đại Ngu, và tiến hành nhiều cuộc cải cách lớn, trong đó có việc đổi tiền đồng sang tiền giấy “thông bảo hội sao”. Tuy nhiên không phải cuộc cải cách nào cũng được lòng dân chúng. Năm 1406, nhà nước phong kiến bên Trung Quốc lúc này là nhà Minh cử các tướng Mộc Thạnh, Trương Phụ,… đem quân xâm lược nước Đại Ngu. Quân quan nhà Hồ chống cự quyết liệt nhưng vì Đại Ngu lúc đó chưa ổn định, nhà Hồ chưa được dân chúng ủng hộ,… nên cuối cùng quân Minh đập tan sức kháng cự của quân Hồ. Hồ Quý Ly cùng con trai và nhiều tướng bị bắt giải sang Trung Quốc. Nhà Minh nhập Đại Ngu thành quận Giao Chỉ của họ. Lúc đó nhân dân Đại Ngu mới bắt đầu khởi nghĩa ở nhiều nơi. Hic. Năm 1407, Trần Ngỗi rồi Trần Quý Khoáng là quý tộc tôn thất nhà Trần, tiến hành khởi nghĩa chống quân Minh. Ban đầu cũng giành được một số thắng lợi đáng kể nhưng sau đó trong nội bộ mất đoàn kết nên nghĩa quân suy yếu và bị dập tắt vào năm 1412. Năm 1418, sau khi quy tụ được nhiều hào kiệt khắp nơi trong nước, trong đó có Nguyễn Trãi, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa tại núi Lam (thuộc Thanh Hóa ngày nay). Ban đầu lực lượng nghĩa quân còn yếu, chừng vài nghìn người, nhưng cũng dùng mưu thắng được nhiều trận lớn gây thanh thế như ở Lạc Thủy, Mường Một... Quân Minh tăng cường đàn áp với sự giúp đỡ của nhiều kẻ bán nước, chỉ điểm nên có lúc chúng đẩy nghĩa quân lâm vào tình trạng hiểm nghèo. Ba lần nghĩa quân phải trốn lên núi Chí Linh, chịu cảnh đói khát, thiếu thốn trăm bề. Ở lần thứ hai rút lên núi Chí Linh, năm 1419, nhờ 500 quân cảm tử do Lê Lai dẫn đầu đánh xông ra, mạo danh Lê Lợi để cho giặc bắt giết nên nghĩa quân mới được bảo tòan xuống núi. Nghĩa quân Lê Lợi chiến đấu như vậy ròng rã mấy năm trời cho đến năm 1424 thì mới tạo nên chuyển biến có lợi cho mình. Đầu năm 1427, nghĩa quân Lam Sơn đã giành lại phần lớn đất nước, dồn quân Minh vào cố thủ trong 4 thành Đông Quan (Thăng Long), Chí Linh, Cổ Lộng, Tây Đô. Tướng quân Minh lúc đó là Vương Thông phải cho người về nước xin viện Binh. Tuy nhiên, cả hai cánh quân cứu viện, với số quân 15 vạn, do Liễu Thăng và Mộc Thạnh chỉ huy đều bị quân Lê Lợi tiêu diệt ngay tại cửa ải. Liễu Thăng bị chém đầu tại trận ở ải Chi Lăng. Mộc Thạnh hay tin thì đang đêm mang quân chạy về nước nhưng cũng bị phục đánh tơi bời. Quân Lê Lợi giết được hàng nghìn lính, thu nhiều ngựa và vàng bạc, khí giới. Ngày 10/12/1427, túng quẫn vì bị vây mà không có viện binh, quân Minh đang cổ thủ trong các thành đều ra hàng. Lê Lợi tha cho 10 vạn giặc Minh và còn cấp đủ lương thực cho chúng, sửa cầu đường cho chúng rút về nước. Cả bọn đều bái lạy. Đầu năm 1428, Lê Lợi làm lễ lên ngôi Hoàng Đế ở thành Đông Kinh (Thăng Long) khôi phục tên nước Đại Việt mở đầu triều đại nhà Lê. (Gọi là nhà hậu Lê để phân biệt với nhà tiền Lê của Lê Đại Hành trước kia).
Tiep theo
TRANG CHU